Trung Phong Pháp Ngữ - Lâm Tế Ngữ Lục

  • Tình trạng: Chỉ còn 56 sản phẩm
45.000₫


TRUNG PHONG PHÁP NGỮ
(Trích trong Chỉ Nguyệt Lục của bộ Tục Tạng Kinh)
Việt Dịch: Nguyên Chánh .
Nhà xuất bản :Tôn Giáo / Quý 3 năm 2022.

Trung Phong Pháp Ngữ  - Lâm Tế Ngữ Lục.

VÀI HÀNG VỀ DỊCH GIẢ NGUYÊN CHÁNH

Dịch giả Nguyên Chánh (còn có tên là Định Huệ) quê quán tại Mỹ Tho, vốn người rất thông minh, uyên thâm Hán học, và thâm hiểu giáo lý nhà Phật, đã dịch nhiều sách Hán tự ra Việt văn. Nhờ những ưu điểm đó nên những sách dịch của ông đều rất có giá trị.
Ông hiện sống tại Việt Nam. Ngoài giờ làm việc, ông còn dạy giúp môn Hán Nôm cho rất đông Tăng Ni.
Trung Phong Pháp Ngữ là một trong những sách mà ông đã dịch.
Ngoài ra, khi dịch Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải, dịch giả trong đó có nhiều người phụ giúp, ông Nguyên Chánh là người đã giúp đỡ nhiều nhất.

*****
Quyển TRUNG PHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ của Thiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, in trong Tục Tạng Kinh, tập số 122.

Nội dung sách tấn người học lập chí lâu bền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghi bùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử. Vì thế, Ngài cực lực bài xích cái thói quen tai hại của người học muốn dùng tri giải để hiểu Phật pháp, thiền đạo, làm chướng cửa ngộ, nhất định không thể nào giải quyết được việc lớn sanh tử, mà trái lại còn thêm lớn ngã kiến, kết chặt gốc rễ luân hồi. Lời khai thị thống thiết đầy nhiệt tình của Ngài có sức thúc giục cảnh tỉnh rất là mãnh liệt khiến người học vừa phấn chí mình, vừa cảm tấm lòng từ bi chỉ dạy của Ngài, mà dốc lòng tinh tấn hành đạo.

Thiền Sư Trung Phong, tên Minh Bổn, họ Tôn, quê ở Tiền-Đường, Hàng Châu, sanh năm Cảnh-Định thứ tư (1263 T.L.) đời vua Lý-Tông triều Nam-Tống.

Sư nối pháp thiền-sư Cao-Phong Nguyên-Diệu. Vua Nhân-Tông nhà Nguyên phong hiệu cho Sư là Phật-Từ Quảng-Huệ thiền-sư và ban cho cà sa Kim-Lan.

Ngày 14 tháng 8 năm Chí-Trị thứ ba (1323 T.L.) đời vua Anh-Tông, Sư thị tịch. Vua Văn-Tông ban thụy là Trí-Giác Thiền-sư. Vua Thuận-Tông ban thêm hiệu là Phổ-Ứng Quốc-Sư.

Sư có trước tác bộ Quảng Lục 30 quyển, đã được biên vào Tích-Sa Đại Tạng Kinh tập số 599.

 

1. KHAI THI ĐỔ CHÚNG

Thiền-sư Phật-Ấn Liễu-Nguyên thống thiết dạy sơ lược như sau:

"Một niệm tịnh tâm cuối cùng thành chánh-giác. Từng bước chẳng nghỉ, ba-ba què đi xa ngàn dặm. Căn khí tuy có lợi độn cạn sâu, song sự thành công chỉ ở tại chỗ phát phẫn lập chí. Tôi nay thống thiết dạy đạo tục nên biết bốn điều dễ, và bốn điều khó.

Cái gì là bốn điều dễ?
1. Chính mình là Phật, chẳng cần cầu thầy khác. Nếu muốn cúng dường Phật, chỉ cúng dường chính mình, là điều dễ thứ nhất.
2. Vô-vi (vô tác) là Phật, chẳng cần xem Kinh, lễ Phật, hành đạo, tọa thiền. Đói ăn mệt ngủ, tùy duyên nhậm vận, là điều dễ thứ hai.
3. Vô-trước là Phật, chẳng cần hủy bỏ hình thể, xa lìa quyến thuộc, núi rừng, chợ búa, nơi nào cũng tự tại, là điều dễ thứ ba.
4. Vô-cầu là Phật, chẳng cần lập công bồi đức, siêng tu khổ hạnh, hai thứ phước huệ trang nghiêm đều không dính dáng, là điều dễ thứ tư.
Cái gì là bốn điều khó?
1. Tin được là điều khó thứ nhất,
2. Niệm được là điều khó thứ hai,
3. Ngộ được là điều khó thứ ba,
4. Tu được là điều khó thứ tư.
Tin nhân quả có thể nói là niềm tin nhỏ, chẳng thể cho là niềm tin lớn. Vậy mà người nghi vẫn nhiều, người tin lại ít. Người tin mà chẳng nghi, trong trăm ngàn người chỉ có một hai người. Huống chi chóng thấy tự-tánh, nhất siêu trực nhập vào việc Như-Lai. Ngàn kinh muôn luận, các thứ tông tích dị kỳ để lại ở thế gian chỉ vì người không có lòng tin. Chư Thánh từ bi rộng lập phương tiện mở sáng bọn mê khiến họ từ cửa tín mà vào. Bởi vì người có niềm tin mới lập hạnh, do đó niềm tin là một điều khó.

Trong suốt ngày đêm chỉ muốn niệm niệm chẳng quên, lúc đi thì đi niệm, lúc ngồi thì ngồi niệm, lúc cử động, nói nín, nằm xuống, đứng dậy đều niệm, lúc làm việc, tiếp vật cho đến khốn khổ hoạn nạn hiểm nguy cũng đều niệm. Thân như cây khô, như tảng đá, như thây chết, như tượng đất, chỉ tâm tâm ở tại đạo; ứng đáp với người như si, như say; nghe tiếng thấy sắc như điếc như đui. Vì thế dụ như mèo rình bắt chuột, tâm và mắt chăm chú nhìn vào một chỗ, lơ đễnh một chút ắt chuột chạy mất; như gà ấp trứng, hơi ấm cần phải liên tục, gián đoạn một chút là không thể thành gà con được. Vì thế niệm nầy là một điều khó.

Niệm đạo vốn phải gìn giữ lâu ngày, còn ngộ đạo ở tại khoảnh khắc. Lúc nhân duyên chưa chín mùi thời tiết chưa đến cơ hội sa#n sàng nên không thấy được. Nhân duyên đã chín mùi, thời tiết đã đến, tuy hình dáng chẳng tiếp xúc mà bỗng nhiên hiện tiền. Khó nói cái thấy của người đã ngộ cho người chưa ngộ nghe, như người mù từ thuở sơ sanh nói cho họ nghe về ánh sáng mặt trời, họ tuy nghe nhưng chẳng thể biết. Người ngộ không còn đạp dấu của lúc chưa ngộ; như người ngủ thức dậy, bảo người ấy làm lại việc trong mộng, tuy người ấy nhớ mà chẳng tìm lại được. Người tham học phải lấy ngộ làm tiêu chuẩn,vì thế cái ngộ nầy lại là một điều khó.

Chưa ngộ phải thường lo niệm, đã ngộ càng phải giữ gìn như bưng dĩa nước, như cầm vật báu, như giữ tròng con mắt, như đi chỗ nguy hiểm, như đối trước vua, trước thầy. Đây là giữ gìn đạo vậy. Giữ gìn tức là tu vậy. Thấy đạo mới tu đạo, chẳng thấy làm sao tu.

Có người hỏi : Đã ngộ rồi đâu cần tu.

Đáp rằng: Tập khí do nhiều kiếp huân tập không thể nhất thời sạch hết, nên cần phải tu. Tu đến vô-tu sau đó mới đồng với Chư Phật. Vì thế cái tu nầy lại là một điều khó.

Cho nên người chẳng biết bốn điều dễ thì có thể làm lành, mà chẳng thể nhập đạo. Người chẳng biết bốn điều khó thì có thể nói về đạo, mà chẳng thể tiến trên đường đạo".

Trong văn trên Thiền-sư Phật-Ấn nói niệmđạo, tức ngày nay nói tham, nói khán.

Trong bốn điều khó, đầu tiên nói niềm tin là khó. Nói tin là muốn người học đạo tin bốn điều dễ ở trước và bốn điều khó ở sau. Vậy niềm tin nầy chẳng phải dễ được. Thứ nhất là nhờ sức Bát-Nhã sâu dày nhiều đời của chính mình, kế đến là nhờ chánh niệm hằng ngày luôn luôn thống thiết vì việc lớn sanh tử thâm nhập vào xương tủy không có khoảnh khắc gián đoạn. Lòng tin đã như vậy thì câu thoại đầu sở tham như người đói được thức ăn, người rét được áo mặc, dẫu ép buộc buông bỏ trọn chẳng thể được. Tâm tham cứu đạo miên mật thì không có lẽ nào không ngộ, ví như đi đường miệt mài đi mãi ngày đêm có lý nào chẳng đến. Ngộ đó là ngộ bốn điều dễ ở trước. Bốn điều dễ này nếu chẳng phải ngộ nhập thì đều gọi là vọng-giải. Người đời nay có chút tư chất thông minh chẳng đợi ngộ nhập, cứ đem tình thức lãnh hội bốn điều dễ nầy rồi tự cho là thật chứng, bèn bỏ hai thứ phước huệ trang nghiêm, vì cho rằng không dính dáng. Luận đàm lý tột chưa từng chẳng đúng, song chẳng dè chưa từng ngộ nhập nên rơi ở trong tình thức phân biệt, suốt ngày nói ăn mà không no bụng. Vả lại, ngộ đã chẳng chân như người chưa đến nhà, muốn ở giữa đường cất nhà để ở, thì nên hay chẳng nên?

Do đó nên biết, đạo đã chẳng ngộ thì tu rất khó vậy.

Hôm nay, khai thị hậu học chỉ dùng thuyết bốn điều dễ, bốn điều khó của hòa thượng Phật-Ấn thống thiết trình bày. Các Bồ-Tát học Bát-Nhã ở thiền-đường đều là người xa lìa các thứ thụ hưởng thế gian đến đây cam chịu khổ hạnh, ai mà chẳng nói vì việc lớn sanh tử vô thường, thì nỡ nào để năm tháng trôi qua vô ích.

Trong văn nói như mèo rình bắt chuột, lơ đễnh một chút ắt chuột chạy mất, như gà ấp trứng nếu gián đoạn một chút ắt chẳng thành gà con. Lời nầy đáng tin. Mong mọi người đồng phấn chí sớm ngộ. Minh Bổn tôi hạ nầy ngọa bệnh chẳng thể cùng các huynh đệ luận đạo, cho nên dẫn lời nầy để nhắc nhở. Thời gian qua mau như nước chảy, chớ để về sau hối hận.

2. THỊ CHÚNG

Động Sơn qua cầu, Huyền Sa qua núi, Thái Nguyên nghe tiếng tù và, cùng với Thích Ca nửa đêm thấy sao mai mọc đồng một thời tiết, hiện nay ở trên phần các ông không thiếu chút nào!

Xưa hai Tổ Lâm Tế và Đức Sơn, hễ thấy người tham thiền đến, không nỡ lòng dạy bảo, chỉ dùng thủ đoạn (cơ xảo) hét to đánh mạnh, sau nầy thủ đoạn ấy lưu hành chốn tòng lâm, trở thành thường lệ. Thiên hạ tòng lâm nói thiền thao thao mà thật ra chỉ lấy thủ đoạn của Tổ truyền thừa lừa gạt lẫn nhau, khiến cho thuốc hay đến nay thành ra không linh nghiệm.

Tiên sư (Ngài Cao Phong) ba mươi năm thân đứng như vách chỉ lo chữa trị cái việc nầy cho người học, bóp chặt cổ họng không cho ông nói, không cho ông hiểu, cũng không cho ông sanh một niệm thứ hai nào khác. Chỉ hướng lên trên câu thoại đầu, đứng vững gót chân chăm bẳm tham cứu, như kẻ gặp oán địch, như cứu lửa cháy đầu, ngoài bặt cảnh duyên, trong quên tình thức, hầu đợi ông như hạt đậu nổ trong tro lạnh, chết đi sống lại. Ông nếu chưa đến thời tiết nầy, thì quyết chẳng chịu đem ngữ ngôn tương tợ dẫn người đi lầm đường. Phải biết sanh tử vô thường là việc lớn, há người căn khí cạn cợt có thể vượt nổi ư? Người đời nay chẳng hiểu chỗ kiến lập của Phật Tổ thuở xưa, luôn luôn đuổi theo tình cuồng, thức vọng, mở miệng bèn muốn vượt qua Phật Tổ, khi xem đến chí hướng đạo của họ thì không có nửa điểm chân thật chủ tể. Mới đề được câu thoại đầu trong chốc lát, được chút thuần thục liền tự vui mừng, vừa bị hôn trầm, tán loạn cướp đoạt bèn nói căn độn nghiệp sâu. Tình cờ gặp phải vài điều trái ý trước mắt thì tức giận nghiến răng, niệm niệm chẳng dứt. Hoặc nghĩ bậy, tưởng xằng, khởi diệt muôn thứ mà tự chẳng biết, cuồng loạn nằm trong tâm mà tự cho rằng người hành đạo, lý phải như vậy. Trải qua ba năm, năm năm đã chẳng tương ưng, liền sanh tâm lui sụt, bỏ vào trong cái vỏ vô sự cam chịu luân hồi, hạng người như thế rất nhiều. Hoặc chẳng như thế, bèn đem ý thức săn lấy những lời của các thiền sư giả mạo từ xưa đến nay lừa dối hiền thánh, muôn điều tạo tác đều là hư-giả đọa-lạc biên kiến, trọn chẳng tự giác.

Muốn cầu một chỗ ổn thỏa, thì hai mươi năm, ba mươi năm chẳng biến chẳng đổi, hướng vào trong bổn tham, chẳng dính với thức trần, lấy ngộ làm cực tắc (cùng tột) như đãi cát tìm vàng. Tòng lâm pháp đạo ngày càng suy đồi, ông có biết chăng? Hôm nay mở to đôi mắt hướng lên tuyệt đỉnh cô phong, thọ người tín thí cúng dường, huống là tự mình cô phụ cái danh tự người hành đạo mà còn cuồng vọng biếng nhác chẳng tự kiểm điểm, đâu biết mai kia trôi giạt vào loài súc sanh chẳng ăn nuốt lẫn nhau kết nghiệp vô gián ư? Người xưa nói: "Tam đồ lục đạo từ vô lượng kiếp đến nay chẳng phải không từng trải qua, đời nay không biết trồng hạnh lành gì mà được gặp nhau dưới chiếc ca-sa, nếu chẳng sớm ly tình tuyệt lự bỏ ngủ quên ăn, thời giờ trôi qua, lấy gì nương cậy".

Núi này từ thuở khai mở đạo tràng đến nay, vào mùa đông lạnh lập kỳ hạn tham thiền. Các ông vào thiền kỳ nầy ắt muốn tìm cái lộn ngược (ý nói là triệt ngộ), chẳng phải môn đình bày đặt ra, cũng chẳng phải cố tự chỉ bày mà là phương thức hiệu nghiệm của tiên-đức dùng để giải quyết xong cái việc của các ông sa#n đủ. Trong giáo nói: "Ta chẳng tiếc thân mạng, chỉ muốn đạo vô thượng". Ông chỉ thấy tiền bối qua núi, nghe tù-và ngộ một cách dễ dàng, trái lại chẳng biết cái khó của lúc chưa qua núi, chưa nghe tù-và cùng với người bây giờ không khác chút nào vậy. Nếu biết được cái khó ấy thì đạo nào ta cũng hành được.

Đường-chủ, duy-na vì thấy tâm chúng giải đãi, thỉnh tôi khuyến khích. Minh Bổn tôi nói hoàn toàn không có lỗ mũi để cho người nắm lấy, chỉ đem việc lớn sanh tử vô thường cho người chân thật vì đạo cố gắng. Nếu không tin, cứ đi hỏi nơi khác.

3. KIẾT HẠ

KHAI THỊ ĐỔ CHÚNG TẠI THUẬN TÂM AM.

Hôm nay ngày rằm tháng tư, là ngày kiết hạ, phải biết hai ngàn năm trước, trên hội Linh Sơn cũng có ngày rằm tháng tư kiết hạ. Từ đó cho đến ngày nay, tòng lâm các nơi chẳng trái lệ cũ. Chín mươi ngày không dây tự trói, nói là cấm túc, nói là an-cư, lại chẳng biết người chân thật học đạo từ một niệm đầu tiên cương quyết liễu thoát việc lớn sanh tử vô-thường thì "túc" nầy ngay nơi đây liền cấm, hạ nầy do đó mà kiết, đem hết năm tháng của trọn cuộc đời làm chín mươi ngày chẳng nhiều, chẳng ít, chẳng bớt, chẳng thêm, để mong cùng việc nầy tương ưng. Về sau gọi đó là thời tiết Phật hoan hỷ, Tăng tự-tứ. Bằng chẳng như thế, chỉ muốn bắt chước thường tình thế gian theo quy củ lễ nhạc chẳng dám vượt qua cho là nhập hạ, chẳng những cô phụ Phật Tổ mà cũng vùi chôn chính mình.

Hôm nay chúng ở am hơn mười người, ai cũng biết có việc nầy, chẳng chịu tự cô phụ, tự chôn vùi, huống là ngay lúc pháp nầy vừa đến, thừa cơ hội nầy phấn khởi một tấm lòng chân thật mạnh mẽ không gián đoạn quyết định chẳng lui sụt, chỉ đề khởi một câu thoại đầu vô nghĩa vô vị. Từ một ngày đầu tiên bắt đầu đứng vững gót chân chẳng được nhúc nhích một chút, kín đáo hạ thủ hướng tới trước, một ngày phải thấy công trình một ngày, một giờ phải thấy ứng nghiệm một giờ. Từ người trên đến kẻ dưới cảnh sách lẫn nhau, mài giũa cho nhau, chẳng tạp duyên, chẳng vọng niệm, chẳng theo vật chuyển, chẳng đuổi theo cảnh, chẳng theo quy củ xưa, chẳng còn phép tắc mới, chẳng chán phàm, chẳng mộ thánh, cho đến tất cả đều chẳng làm. Chỉ muốn một cái ấy của mình minh bạch. Hốt nhiên bị ông lạnh lùng thấu thoát mới biết chín mươi ngày là cả cuộc đời, cả cuộc đời chính là chín mươi ngày, cho đến hai ngàn năm trước chẳng khác ngày hôm nay, ngày hôm nay chẳng khác hai ngàn năm trước, mắt xích liền nhau trọn không gián đoạn, đây là trường tuyển Phật, tâm không thi đậu về. Ví như chẳng được như vậy thì cái am Thuận-Tâm nầy đâu khác hai hòn núi Thiết-Vi. Đừng cho rằng an-cư vô sự bỏ trôi mùa hạ, biết trước chí nguyện bình-sanh chẳng toại, ở đây có thể thấy vậy.

Am-chủ gởi thư đến thỉnh lời cảnh sách cho chúng, lấy đại sự tham cứu thoại đầu, chẳng những chúng-nhân mà am-chủ cũng phải tự chiếu cố.

* * *

Thiền là bổn lai diện mục của các ông, trừ ngoài cái nầy không có thiền nào có thể tham, cũng không thể thấy, cũng không thể nghe. Ngay cái thấy nghe nầy toàn thể là thiền, lìa ngoài thiền cũng không riêng có thấy nghe cho mình đắc được. Các ông tụ họp nơi đây, mỗi người riêng có một công án chẳng liễu ngộ chứa ở trong gan phổi, chẳng phải là duyên nhỏ đâu! Trong suốt ngày đêm chớ lầm dụng tâm thì tốt. Người xưa nói: "Tham thiền học đạo là lầm dụng tâm, thành Phật làm Tổ là lầm dụng tâm. Trừ ngoài cái nầy ra, lại làm cái gì mới chẳng gọi là lầm dụng tâm?". Việc nầy hãy gác lại.

Chỉ như các ông mỗi người trong lòng đều vốn có một bổn cổ-thanh-quy (quyển ghi qui củ xưa), chẳng nên phạm vào lúa mạ người. Như canh năm, khi thiền đường đánh bảng khởi tham, chẳng kịp rửa mặt cũng phải theo chúng xuống đất chạy một vòng rồi đợi đại chúng vào thiền đường thì lên tọa cụ ngồi thẳng, hễ nghe bảng khai tịnh đánh thì xếp tọa cụ, đắp ca-sa mang bát đi ăn cháo. Phàm ăn cơm cháo phải xem trên dưới, chúng mau thì mau, chúng chậm thì chậm để chẳng làm động tâm niệm người khác. Huống là cử chỉ động tịnh mỗi mỗi đều có oai nghi phải tuân theo, chớ nói ta là người hành đạo đại ngộ chẳng chấp tiểu-tiết; ngặt vì ông chưa ngộ, đâu thể nói chẳng tuân theo quy củ. Bởi do cái chánh niệm vì đạo chẳng thiết tha vì thế cử chỉ không đàng hoàng cho đến phá phạm luật-nghi, tự mất chánh-nhân, bị người khinh mạn.

Các ông đây mỗi người hãy tự xét kỹ, như pháp tuần thiền đường, thống thiết vì việc lớn sanh tử chưa được rõ ràng, sợ năm tháng trôi suông, bị người đánh một cái chẳng hỏi mình có đau hay không đau đều coi như uống nước cam-lồ, phải phấn khởi dũng mãnh cực lực hướng tới trước, há có thể trở lại sanh giận hờn mà ôm lòng báo oán ư? Sanh tử vô thường là một tập quán tai hại muôn kiếp dao cắt chẳng ra, cưa xẻ chẳng đứt. Ngày nay đã chịu bắt đầu phát tâm chân thật, ở cao trên đảnh lạnh lùng, hận chẳng được kéo dài một ngày ra làm mười ngày, đứng vững gót chân để hạ thủ đi! Hễ thấy mặt trời lặn sau núi thì sanh lòng than tiếc lại qua mất một ngày, đạo nghiệp chưa xong, nhãn quang lạc địa (ý nói là chết) rốt cuộc lấy gì báo đáp ân Phật Tổ, đàn việt! Đợi chi đến lúc tay chân rối loạn; ngày hôm nay lúc bệnh chưa đến thân hãy sớm tìm lấy cái lộn ngược (ngộ) đi!.

Minh Bổn tôi chỗ thấy như thế, lại chẳng từng đem việc dây dưa vô ích dạy bảo cho người, chỉ thực lòng cho biết như thế từ sự chân thật bảo nhau. Tôi muốn thuận theo lời thỉnh của các ông qua am nói chuyện, vì sa#n có việc đi Tây-Sơn, nên phiền Đường-Chủ thay thế tôi bạch với chúng. Mọi người hãy tự tham cứu, chớ nên dễ dãi. Ước mong mọi người chấn chỉnh tinh thần sớm cầu giải thoát, cũng chẳng cho luôn luôn qua sông qua núi tìm nhau, đối với đạo vô ích.

4. KHAI THỊ CHÚNG PHÁT BỔ-ĐỀ-TÂM

Bồ-đề-tâm là tiếng Phạn, ở đây gọi là đạo tâm. Các ông nếu không có tâm hướng về đạo thì ngày nay quyết chẳng chịu đến đảnh núi cao nầy mài đũng quần ngày đêm siêng năng cực khổ tham cứu sanh tử. Phải biết cái đạo tâm nầy xa từ nhiều kiếp trước kia đã từng phát khởi, chỉ vì tâm nhiều biếng nhác, ý chạy đuổi phan duyên nên chưa thủ chứng. Đến hôm nay cần phải cắt đứt các duyên, thôi dứt muôn lự, chỉ đề khởi một câu thoại đầu sở tham liều mạng một đời giải quyết cho xong, chẳng phải là việc ngoài bổn phận. Chánh niệm nầy chẳng thể kiên cố miên mật dằng dặc bảo nhậm, lại muốn chợt sanh tình vọng, rồi muốn phát bồ-đề-tâm. Đây là hư vọng điên đảo, mất chánh niệm, hướng ra ngoài tìm cầu, trái ngược với chân-tâm, cùng đạo cách tuyệt. Đừng nói phát bồ-đề-tâm một lần, mà một ngày phát ngàn lần muôn lần cũng chẳng bằng một niệm chánh niệm bảo nhậm thoại đầu sở tham. Lại muốn tụng kinh, lễ bái, phát lồ sám hối v.v.. đều theo vọng theo tà, há chẳng thấy trong kinh nói: "Nếu người muốn sám hối nên ngồi thẳng niệm thật tướng". Phải biết thật tướng cũng là vô niệm. Chỉ cần ông tin được có việc lớn sanh tử, trong suốt ngày đêm đề khởi câu thoại đầu sở tham như cứu lửa cháy đầu là niệm thật tướng vậy. Người huyễn (Ngài Minh Bổn tự xưng) như có một chữ dối gạt các ông, tự cam chịu hằng đọa địa ngục rút lưỡi. Xin duyệt-chúng hãy nói cho những người muốn phát bồ-đề-tâm biết, nên bỏ ý định đó đi, mà phải dốc lòng hành đạo mới đúng!

Xem thêm Thu gọn

 Do nhu cầu mua hàng online ngày càng gia tăng website 07mua.com cung cấp các sản phẩm thuộc các ngành hàng như sau: Sách, Văn phòng phẩm, In ấn, bao bì, Bách hóa, mỹ phẩm, Thời trang, Điện gia dụng...
Với phương châm sản phẩm mang lại sản phẩm tốt phục vụ khách hàng ,không bán hàng nhái, hàng giả.
07 Mua rất mong được ủng hộ của quý khách hàng.

Trân Trọng

LIÊN HỆ

Sản phẩm vừa xem

popup

Số lượng:

Tổng tiền:

Giỏ hàng( Sản phẩm)